Nội soi đại tràng là phương pháp dùng dây soi mềm, đầu có gắn camera đi từ hậu môn, qua trực tràng, đi hết đại tràng, tới manh tràng và vào phần cuối hồi tràng. Đây là phương pháp tối ưu để chẩn đoán và can thiệp các bệnh lý đại tràng như viêm loét đại tràng, polyp đại tràng, ung thư đại tràng… Kỹ thuật nội soi đại tràng thường phức tạp và khó hơn nhiều so với nội soi dạ dày. Hôm nay, phòng nội soi tiêu hóa Bvđk Mê Linh sẽ chia sẻ với các bạn về kỹ thuật nội soi đại tràng
VẬN HÀNH DÂY SOI ĐẠI
TRÀNG
Dây soi gồm 2 phần, phần
điều khiển và phần dây soi. Phần điều khiển được cầm bằng tay trái, đỡ giữa
ngón cái và ngón trỏ, ngón út và áp út ôm sát thân máy tạo sự vững chắc. Ngón
giữa điều khiển van khí nước, bơm khí giúp lòng đại tràng giãn để quan sát, có
2 mức bơm khí, trong soi đại tràng ta chọn mức thấp. Khi nhấn van này ta sẽ bơm
nước để rửa mặt kính camera khi bị bám bẩn. Muốn bơm rửa các tổn thương và các
chất bẩn trong đại tràng, ta bơm nước qua kênh sinh thiết hoặc hay dùng hơn là
bơm nước qua kênh nước phụ.
Ngón trỏ sử dụng van hút,
giúp hút bơi hơi trong lòng đại tràng hoặc các dịch ứ đọng, ngoài ra còn sử dụng
các nút chức năng như dừng hình, bật chế độ nội soi dải tần hẹp NBI…
Ngón cái được sử dụng núm
up, down, điều chỉnh phần uốn cong đầu dây soi lên hoặc xuống, điều chỉnh núm
right, left giúp đầu ống soi sang phải, sang trái
Tay phải được sử dụng để
đưa và rút dây soi, nên cầm dây soi với những đoạn khoảng 30-40cm, ngắn quá ta
phải thao tác nhiều hơn, dài quá dễ gây hỏng các thành phần trong dây soi, đưa
và rút dây soi thẳng trục cơ thể người bệnh. Ngoài ra phối hợp với tay trái để
điều khiển dây soi sang trái, sang phải bằng cách xoay dây soi cùng chiều hay
ngược chiều kim đồng hồ khi đang up hoặc down máy
Olympus khuyến cáo luôn
giữ khoảng cách giữa thân máy và phần cong của dây soi trên 10cm, không đưa dây
soi qua rìa hậu môn quá chỉ giới này để tránh tổn thương người bệnh và hỏng dây
soi
Dây soi đại tràng có thể
điều chỉnh được độ cứng của dây soi từ mức 0 (mềm nhất), tới mức 3 (cứng nhất)
giúp đưa dây qua các đoạn gập góc dễ dàng hơn. Tuy nhiên, tuyệt đối chỉ điều chỉnh
độ cứng dây soi khi đã rút thẳng dây soi, không còn cuộn ống. Nếu không có thể
gây tổn thương và làm người bệnh rất đau đớn. Thực tế, chúng tôi hầu như không
sử dụng tới tính năng này.
TƯ THẾ NGƯỜI BỆNH TRONG NỘI
SOI ĐẠI TRÀNG
Người bệnh có thể nằm
nghiêng trái dễ qua đại tràng sigma, nằm ngửa dễ dàng ép bụng hỗ trợ, và qua
góc trái dễ dàng hơn, nằm nghiên phải giúp qua góc phải dễ dàng hơn. Tư thế người
bệnh thường linh động, phụ thuộc vào diễn biến thực tế trong khi nội soi.
TƯ THẾ BÁC SỸ TRONG NỘI
SOI ĐẠI TRÀNG
Bác sỹ cần đứng thẳng, đối
diện màn hình nội soi, không vẹo lưng, vẹo cổ. Tự tay đưa và rút dây soi, có thể
nhờ người phụ giữ hộ ống soi tránh tuột. Cần thiết kế ít nhất 1 màn hình phụ
vuông góc với màn hình chính để người phụ và bệnh nhân có thể quan sát
NGUYÊN TẮC NỘI SOI ĐẠI
TRÀNG
1. Nguyên tắc số 1: chỉ đưa dây soi khi nhìn thấy đường, tuyệt
đối không đưa dây mù: Đây là nguyên tắc cơ bản nhất, xuyên suốt trong quá trình
soi để tránh tổn thương niêm mạc đại tràng hoặc biến chứng thủng, những đoạn đại
tràng gập góc, đường đi sẽ gấp khúc, khó khăn, khó nhận biết. Bác sỹ nội soi cần
cẩn thận, tỷ mỉ và kiên trì. Nếu không tìm được đường đi hãy nhớ tới nguyên tắc
số 2
2. Nguyên tắc số 2: Hút và rút
Hút là hút hơi, hút dịch. Khi đại tràng còn dịch,
ta cần hút hết dịch mới tìm thấy đường, Luôn tránh bơm hơi căng vì sẽ làm các
góc đại tràng trở lên khúc khủy, góc cạnh hơn, khó đi qua hơn, ngoài ra bơm hơi
căng làm gia tăng các vùng không nhìn thấy sau các nếp van đại tràng, gây khó
khăn tìm đường đi, lý do nữa là khi bơm hơi căng sẽ làm bệnh nhân rất đau đớn,
sẽ phản ứng, gây khó khăn cho cuộc soi. Chính vì vậy, bất cứ khi nào gặp khó
khăn trong cuộc soi, hãy nhỡ tới nguyên tắc này.
Rút máy là kỹ thuật quan
trọng nhất quyết định sự thành công cho cuộc soi. Rút máy giúp làm ngắn dây
soi, các quai đại tràng thẳng, tạo kiều kiện tối ưu để vận hành dây soi tới được
manh tràng. Rút máy thẳng trước khi qua góc trái là đã thành công được ½ chặng
đường
Khi nào cần rút máy?
-
Khi qua các góc đại tràng: góc nối đại
tràng sigma và đại tràng trái, góc trái (góc lách), góc phải (góc gan), thậm
chí khi tới manh tràng muốn vào được hồi tràng cũng cần rút máy
-
Khi dây soi tạo cuộn: đó là khi đưa máy mà
hình ảnh trên màn hình không tiến thêm thậm chí còn tụt lùi, khi đó bác sỹ cảm
nhận thấy kháng lực ngày càng tăng và bệnh nhân cũng cảm thấy đau tức và khó chịu
càng gia tăng. Do vậy, cần giải thích và động viên người bệnh hợp tác
-
Rút máy, làm ngắn dây soi bất cứ khi nào
có thể: sau mỗi lần đưa máy, nếu rút máy mà hình ảnh đại tràng trên màn hình
không tụt lùi, thậm chí là tiến thêm là ta đang làm thẳng được dây soi. Ngược lại,
nếu dây soi đã thẳng, rút máy mà hình ảnh tụt lùi thì dừng lại và đưa dây soi
đi tiếp theo nguyên tắc số 1.
Khi rút máy cần làm gì?
-
Khi rút máy cần kết hợp với xoay máy cùng
chiều kim đồng hồ, nếu không thành công thì xoay máy ngược chiều kim đồng hồ vì
ta không thể biết được ống soi đang bị cuộn theo kiểu alpha hay kiểu gamma.
Thông thường, qua sigma vào đại tràng trái thường rút máy kết hợp xoay máy cùng
chiều kim đồng hồ. Khi qua góc trái, qua đại tràng ngang tới góc phải, qua van
Bauhin vào đoạn cuối hồi tràng ta thường rút máy kèm xoay máy ngược chiều kim đồng
hồ.
3. Nguyên tắc số 3: Cần biết đầu ống soi đang ở đoạn đại tràng
nào? Giải phẫu đại tràng mỗi người một khác, nhận biết chính xác vị trí giải
phẫu đại tràng trong nội soi không phải lúc nào cũng dễ dàng, cần dựa vào các đặc
điểm sau:
-
Đặc điểm niêm mạc: trực tràng niêm mạc thường
trơn nhẵn ít nếp van, hồi tràng niêm mạc trơn nhẵn, mềm mại, bóng, khẩu kính nhỏ
hơn và không có các nếp van
-
Mặt cắt đại tràng: vùng đại tràng ngang
thường có hình tam giác, vùng đại tràng phải thường to, tròn hơn
-
Các mốc giải phẫu dễ nhận biết: manh tràng
với gốc ruột thừa, van Bauhin; góc gan màu tím sẫm
-
Đọng nước trong đại tràng: chỉ trong tư thế
bệnh nhân nằm ngửa, nước đọng ở trực tràng, đại tràng trái và đại tràng phải,
không có ở đại tràng ngang và đại tràng sigma
-
Khi đưa máy, không dựa vào khoảng cách giữa
đầu ống soi tới rìa hậu môn vì có khi đưa hết dây soi chưa qua được đại tràng
sigma do cuộn ống. Khi rút máy, thông thường manh tràng ở 70cm CRHM, góc gan ở
60cm CRHM, góc trái ở 40cm CRHM, chỗ tiếp nối đại tràng sigma và đại tràng trái
ở 20cm CRHM
4.
Nguyên tắc số 4: hỗ trợ ép bụng, thay đổi
tư thế, đổi người soi, nội soi gây mê
Nhiều
trường hợp nội soi đại tràng qua các góc gặp khó khăn, hoặc khi dây soi tạo cuộn
không thể đi tiếp được, cần người phụ hỗ trợ ép bụng, dùng 2 bàn tay đè lên
nhau ép đều lực lên lòng bàn tay ở vùng đại tràng sigma và/hoặc giữa đại tràng
ngang, cảm nhận được ống soi di chuyển là đạt
Khi
áp dụng các nguyên tắc trên không thành công, cần thay đổi tư thế người bệnh,
thông thường, tư thế nằm nghiêng trái dễ qua đại tràng sigma và chỗ nối đại
tràng sigma và đại tràng trái, ngằm ngửa dễ qua góc trái và đại tràng ngang, nằm
nghiêng phải dễ qua góc phải
Nếu
vẫn không thành công, có thể đổi người soi nếu có thể. Kinh nghiệm của mỗi bác
sỹ là thế mạnh nhưng cũng có thể là yếu tố tiêu cực, nhất là khi chuyên tâm, tập
trung vào 1 trường hợp cụ thể. Nếu không thể đổi tay bác sỹ, hãy rút dây soi và
đi lại từ đầu. Khó khăn hơn nữa có thế áp dụng nội soi đại tràng gây mê cho người
bệnh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét