30.1.22

CẢNH BÁO SỰ NGUY HIỂM CỦA VIÊM DẠ DÀY CẤP TÍNH DỊP TẾT

 

    

Tết đang đến rất gần và mọi người đều hối hả chuẩn bị đón một cái tết mới. Những buổi liên hoan là tất yếu, không thể tránh khỏi. Nhưng, sự quá đà khi sử dụng rượu bia và các đồ chua, cay, gia vị… có thể là nguyên nhân gây ra viêm dạ dày cấp tính với sự đau đớn xảy ra đột ngột, dữ dội, và cực kỳ nguy hiểm.

I. Viêm dạ dày cấp tính là gì

Viêm dạ dày cấp tính là tình trạng tổn thương niêm mạc dạ dày cấp tính với các biểu hiện trên nội soi là sự phù nề, xung huyết ở niêm mạc, những trợt đỏ, ban đỏ và thậm chí là sự xuất tiết, xuất huyết dưới niêm mạc lan tỏa hoặc khu trú. Nếu sinh thiết làm giải phẫu bệnh sẽ thấy sự xâm nhập của nhiều tế bào bạch cầu đa nhân trung tính, một đặc trưng của phản ứng viêm cấp.

Viêm dạ dày cấp tính

II. Nguyên nhân gây viêm dạ dày cấp

- Rượu, bia: đây là nguyên nhân hay gặp nhất, đặc biệt là các loại rượu rởm, rượu pha cồn công nghiệp, rượu mới nấu chưa khử hết aldehyde... Các đồ uống này có thể gây viêm dạ dày cấp tính dù uống với 1 lượng nhỏ vài giọt hoặc 1 vài ly.

Rượu, bia rởm, mới chưng cất là nguyên nhân chính

- Đồ an chua, cay, gia vị sa tế, hạt tiêu, ớt, các loại phẩm màu…. Mặc dù các gia vị này rất cần thiết để tạo hương vị và sự ngon miệng trong bữa ăn. Nhưng nó có thể gây đau bụng dữ dội, viêm dạ dày cấp. Ngày nay, các phẩm màu, gia vị tổng hợp sản xuất công nghiệp không đảm bảo nguồn gốc, chất lượng tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây viêm dạ dày cấp tính.

Chua, cay, các gia vị... có thể gây viêm dạ dày cấp tính

- Thuốc chống viêm corticoids hoặc thuốc chống viêm giảm đau không steroids: Đây là nguyên nhân khá thường gặp gây viêm dạ dày cấp. Tình trạng lạm dụng các thuốc giảm đau chống viêm, tình trạng phổ biến các bệnh đau xương khớp, thoái hóa xương khớp, người bệnh dễ dàng mua được các thuốc này mà không có sự thăm khám, tư vấn của bác sỹ chuyên khoa sẽ cực kỳ nguy hiểm trong điều kiện thực tế ở nước ta.

Thuốc chống viêm corticoids và NSAIDs và viêm dạ dày cấp tính

- Một số ít các trường hợp viêm dạ dày cấp tính sau những stress, sau phẫu thuật, do nhiễm khuẩn Helicobacter Pylory (HP)

III. Triệu chứng viêm dạ dày cấp

- Đau bụng: khởi phát thường nhanh sau vài giờ hoặc 1 vài ngày sau uống rượu, ăn đồ chua cay hoặc các thuốc chống viêm… tính chất đau thường dữ dội, đau liên tục, quặn lên từng cơn rồi dịu đi nhưng không hết hẳn. Vị trí đau thường ở vùng bụng trên rốn, vùng thượng vị.

Đau bụng thượng vị, dữ dội sau uống rượu, bia...

- Nôn, buồn nôn: đây là triệu chứng thường gặp sau triệu chứng đau bụng. Nôn ra dịch thức ăn và dịch mật vàng. Khi nôn được có thể triệu chứng đau bụng thuyên giảm nhưng không hết. Trong viêm dạ dày cấp hiếm khi và không gặp triệu chứng đi ngoài lỏng phân. Nếu có triệu chứng này thì vấn đề nhiễm trùng, nhiễm độc thức ăn sẽ được đặt ra

Nôn, buồn nôn có thể gặp

- Các triệu chứng không đặc hiệu, hiếm gặp hơn như chán ăn, sợ ăn, nôn máu, đi ngoài phân đen nếu có viêm dạ dày cấp tính xuất huyết nhiều.

IV. Hình ảnh viêm dạ dày cấp trên nội soi

- Niêm mạc dạ dày phù nề, xung huyết: là dấu hiệu thường xuyên gặp, toàn bộ niêm mạc dạ dày phù nề, mủn bở, xung huyết lan tỏa, một số ít có thể khu trú ở 1 vùng như vùng phình vị, vùng thân vị hoặc vùng hang vị

Xung huyết, xuất huyết dưới niêm mạc

- Ứ đọng dịch rỉ viêm, dịch mật: trong viêm dạ dày cấp tính, dịch rỉ viêm thường ứ đọng ở vùng thân phình vị, hay gặp cả dịch mật trào ngược. Khi nội soi hút bỏ được dịch này người bệnh cũng đỡ và dịu cơn đău đi nhiều

Xuất huyết khu trú

- Xuất huyết niêm mạc dạ dày: trong viêm dạ dày cấp tính thường gặp hình thái xuất huyết dưới niêm mạc hoặc ở bề mặt niêm mạc, tình trạng xuất huyết khu trú hoặc lan tỏa toàn bộ bề mặt niêm mạc, những trường hợp nặng có những mảng fibrin đen bám và thậm chí rỉ máu bề mặt niên mạc

Xuất huyết lan tỏa

- Xuất tiết, giả mạc trắng bám

Xuất tiết và xuất huyết

V. Điều trị viêm dạ dày cấp

- Giảm tiết dịch acid dạ dày: thuốc ức chế bơm proton: omeprazole, pantoprazole, rabeprazole, esomeprazole. Có thể dùng phối hợp hoặc đơn độc với các thuốc ức chế thụ thể histamine H2: ranitidine, famotidine, cimetidine…

- Bao bọc niêm mạc dạ dày: gastropulgite, phosphalugel, trimaforte…

- Kháng sinh diệt HP nếu có nhiễm khuẩn HP

- Giảm bớt lo lắng, căng thẳng: sulpirid, amytriptilin…

- Thuốc trợ vận động: baclofen, doperidon, metoclopramide…

VI. Dự phòng viêm dạ dày cấp

- Tránh xa rượu, bia, các đồ chua, cay, gia vị

Tránh xa rượu bia là dự phòng lý tưởng

- Dùng thuốc giảm đau chống viêm đúng chỉ định của bác sỹ chuyên khoa

- Diệt HP nếu nhiễm

- Xây dựng lối sống lành mạnh, kiểm soát stress

 CHÚC CÁC BẠN ĂN TẾT ĂN TẾT VUI VẺ VÀ AN TOÀN

10.1.22

HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT KẸP CLIP CẦM MÁU TRONG CẤP CỨU XHTH

Xuất huyết tiêu hóa là 1 cấp cứu thường gặp, có thể gây nguy hiểm tính mạng người bệnh, kẹp clip cầm máu là thủ thuật can thiệp tối ưu, rất được ưa chuộng để cấp cứu thành công chảy máu loét dạ dày, hành tá tràng mà tránh không phải phẫu thuật.

Clip của của các hãng thường gồm 2 phần, phần kìm kẹp clip và các loại clip 

Cấu tạo chung của kìm kẹp clip

1. Cách gắn clip

- Mở hộp đựng clip

- Đảm bảo kìm kẹp clip ở tư thế đóng

Kìm kẹp clip ở tư thế đóng

- Để đáy hộp đựng clip lên đầu nòng sắt của kìm kẹp clip

- Giữ đầu nòng sắt đúng vị trí bằng cách bóp nhẹ đáy hộp đựng clip rồi từ từ mở cán trượt kìm kẹp clip cho đến khi móc sắt kết nối được với kẹp clip ta sẽ nghe được tiếng “tách”, sau đó từ từ đóng kìm kẹp clip để đưa clip vào trong nòng sắt sẵn sàng sử dụng

Kìm kẹp clip ở tư thế mở
Kìm kẹp clip đã gắn clip sẵn sàng kẹp cầm máu

2. Cách kẹp clip

Sau khi đưa dụng cụ qua kênh can thiệp của dây soi đến vùng mô cần kẹp clip:

- Từ từ mở cán trượt để toàn bộ clip ra khỏi đầu nòng sắt

Clip mới mở hình chữ X

- Cần chú ý phải nhìn thấy vùng cán màu trắng của clip

- Từ từ đóng cán trượt của kìm kẹp clip cho đến khi 2 cạnh của clip mở ra hoàn toàn hình chữ V

Clip mở tối đa hình chữ V
- Ta có thể chỉnh hướng clip bằng cán xoay cho phù hợp vùng mô cần kẹp clip
Thao tác xoay clip

- Vừa tì 2 cánh clip vào vùng mô vừa tiếp tục đóng cán trượt sẽ làm clip kẹp chặt vào mô và tiếp tục dùng lực đủ mạnh để tách clip ra khỏi kìm kẹp clip

tỳ 2 cánh clip sâu vào mô

Sau khi rút kìm kẹp clip ra khỏi ống soi, mở cán trượt để móc kết nối với clip ra khỏi nòng sắt và bẻ phần đáy còn lại của clip sang 1 bên và loại bỏ 

3. Những chú ý về kỹ thuật

- Các thao tác kẹp clip có nguy cơ khởi phát chảy máu hoặc làm tình trạng chảy máu nặng nề hơn. Vì vậy, có thể phối hợp với tiêm cầm máu bằng dung dịch adrenalin 1/10.000 làm tăng hiệu quả của phương pháp kẹp clip

Phối hợp với tiêm cầm máu 

- Hiểu biết hướng đi mạch máu rất hữu ích cho ta quyết định cách kẹp clip. Nếu mạch máu nhô lên từ đáy ổ loét, ta nên kẹp vuông góc với mạch máu. Nếu ổ loét gây trợt mạch máu 1 điểm, ta kẹp đúng vị trí chảy máu. Nếu ổ loét ăn vào mạch máu đứt đoạn hẳn mạch máu, ta cần kẹp ở hai đầu mạch máu.

Nên cặp clip vuông góc với mạch máu

- Với ổ loét mềm mại, ta nên kẹp clip điểm chảy máu cùng với tổ chức dưới niêm mạc xung quanh.

Kẹp mạch máu và niêm mạc xung quanh

- Với ổ loét to, những ổ loét xơ chai, những ổ loét ác tính, ta nên chọn clip loại ngắn để dễ dàng kẹp được mạch máu hay điểm chảy máu.

Chọn clip ngắn dễ kẹp động mạch

- Với các trường hợp chảy máu động mạch nhỏ, ta có thể kẹp gián tiếp mạch và tổ chức niêm mạc xung quanh ổ loét, như ví dụ này, ổ loét tiền môn vị chảy máu động mạch nhỏ, có thể kẹp mạch máu cùng với niêm mạc xung quanh.

Kẹp mạch máu và niêm mạc xung quanh

Với chảy máu động mạch nhiều hơn như ở ổ loét thân vị này, ta cần cầm máu trực tiếp vào động mạch đang chảy.
Kẹp trực tiếp vào mạch máu đang chảy

- Về kỹ thuật, chúng ta cần biết tới nguyên lý này, khi đóng clip, 2 ngành chữ V của clip, nó luông có xu hướng co rút lại, nếu không bù trừ, 2 ngành của clip sẽ chỉ kẹp được rất ít tổ chức và rất dễ bị bong ra, không đạt hiệu quả cầm máu. Nếu ta bù trừ sự co rút này bằng cách khi ta vừa đóng clip vào điểm chảy máu, cùng lúc đó kết hợp với dùng lực nhấn 2 ngành của clip xuống sâu dưới niêm mạc, kết hợp với hút, hoặc ta đẩy nhẹ dây soi và kìm kẹp clip vào sâu hơn, ta sẽ kẹp clip vào sâu trong mô hơn để đạt hiệu quả cầm máu của clip tốt nhất.

Kẹp clip đủ sâu để đạt hiệu quả

- Với những trường hợp cần kẹp nhiều clip, ta sẽ kẹp ở những vị trí xa trước, vị trí gần nhất sẽ để sau cùng để tối ưu hóa trường nhìn khi can thiệp.

Clip gần nên kẹp sau cùng

- Sau khi clip đã mở tối đa hình chữ V. Khi đã đóng lại thì 2 ngành chữ V của clip sẽ không thể mở ra lại được nữa. Vì vậy đòi hỏi kinh nghiệm của cả e kip nội soi để tránh lãng phí các clip

- Nhiều bệnh nhân lo sợ các clip là dị vật trong cơ thể. Chúng ta cần giải thích và động viên để bệnh nhân hiểu rằng clip sẽ tự rụng sau khoảng 1-2 tuần và thải ra ngoài theo phân để tránh lo lắng.

Clip sẽ tự dụng và thải ra ngoài sau 1-2 tuần

- Một lưu ý nữa là luôn đảm bảo có không gian để thao tác, không mở clip quá cán trắng bởi nếu không đầu clip chạm vào thành ruột sẽ làm lệch trục kẹp clip, không thể đóng vào lòng sắt được. Sẽ mất ngay kẹp clip này

4. Những hạn chế của phương pháp kẹp clip cầm máu

- Giá thành đắt, chi phí cho 1 clip được kẹp lớn hơn nhiều so với các phương pháp khác như tiêm cầm máu, đốt nhiệt…

- Đòi hỏi yếu tố chuyên môn, kỹ thuật cao của người bác sỹ

- Những trường hợp xuất huyết lan tỏa, không tìm được điểm mạch, hay điểm chảy máu sẽ không thể áp dụng kỹ thuật kẹp clip cầm máu được

- Một hạn chế cuối cùng, phương pháp kẹp clip có thể thất bại. Vì vậy, người bác sỹ giỏi, tự tin là rất tốt, nhưng cần biết điểm dừng. Lặp đi lặp lại các nỗ lực không thành công sẽ làm trì hoãn thời gian được phẫu thuật của người bệnh. Các ổ loét lớn, sâu ở hành tá tràng, đặc biệt là ở mặt sau sát lỗ môn vị, ăn vào động mạch vị tá tràng, các ổ loét lớn, xơ chai, ác tính ở dạ dày ăn vào các mạch máu lớn như động mạch lách, động mạch gan, thì nên được chuyển phẫu thuật càng sớm càng tốt. Kể cả ổ loét đag dừng không chảy máu.

GIẢI ĐÁP NHỮNG CÂU HỎI THƯỜNG GẶP SAU CẮT POLYP ĐẠI TRÀNG

  Polyp đại tràng là bệnh lý thường gặp. Cắt polyp đại tràng qua nội soi là phương pháp can thiệp tối ưu để phòng tránh ung thư đại trực trà...