14.11.21

NỘI SOI DẢI TẦN HẸP NBI (NARROW BAND IMAGING

 


1. Nội soi dải tần hẹp NBI là gì?

Thông thường, nguồn sáng đèn xenon hoặc đền led máy nội soi tạo ra ánh sáng trắng gần giống ánh sáng mặt trời là tập hợp bởi nhiều ánh sáng đơn sắc với bước sóng khác nhau từ 380 - 700 nm mà mắt thường chúng ta quan sát được với 7 màu sắc: đỏ, vàng, da cam, lục, lam, chàm, tím thể hiện ở 3 màu cơ bản: đỏ, xanh lá cây, xanh lam. Mỗi ánh sáng đơn sắc này có khẳ năng đâm xuyên vào mô, tổ chức khác nhau tùy thuộc vào bước sóng của nó. Bước sóng càng dài, khả năng xuyên sâu càng cao. Ví dụ ánh sáng tím bước sóng 380nm không có khả năng đâm xuyên, trong khi ánh sáng đỏ bước sóng 700nm có khả năng đâm xuyên sâu nhất. Khi nội soi, ánh sáng tráng bị hấp phụ 1 phần bởi mô và tổ chức, phần còn lại phản hồi về camera ống soi giúp quan sát được cấu trúc niêm mạc đường tiêu hóa. 

Ánh sáng trắng gồm 7 màu như cầu vồng

Hemoglobin trong mạch máu là thành phần chủ yếu hấp thụ ánh sáng nhìn thấy khi chiếu vào niêm mạc đại tràng, với đỉnh hấp thụ ở ánh sáng xanh lam (415 nm). Cấu trúc niêm mạc polyp đại trực tràng với dày đặc mạch máu ở nông sẽ hấp thụ ánh sáng bước 415 nm vì thế sẽ tương phản rõ rệt hơn giữa mạch máu với niêm mạc vùng xung quanh, đặc biệt với các mô ác tính ở mô ác tính, ung thư sẽ hấp thụ mạnh hơn.

Các bước sóng khác nhau, đâm xuyên khác nhau


Nội soi dải tần hẹp NBI (narrow band imaging) sử dụng hệ thống lọc quang học chỉ giữ lại ánh sáng đơn sắc ở 2 bước sóng là 415 màu xanh lam chỉ phản chiếu ở bề mặt niêm mạc, không thể xuyên sâu hơn và bước sóng 540 màu xanh lá cây, có khả năng đâm xuyên sâu nhưng bị hấp phụ hoàn toàn bởi hemoglobin trong lòng mạch và thể hiện hình ảnh mạch máu màu đen. Như vậy, nội soi ánh sáng trắng cho hình ảnh niêm mạc đường tiều hóa với nhiều màu sắc, nhưng độ tương phản của hệ mạch máu không rõ ràng. Trong khi hình ảnh nội soi NBI chỉ thể hiện bề mặt niêm mạc và cấu trúc mạch máu màu đen. Sự tăng tương phản này giúp dễ dàng phát hiện và đánh giá các tổn thương tăng sinh mạch máu, rất có ý nghĩa phát hiện và đánh giá các tổn thương tân sinh mạch máu

2. Ưu việt của nội soi dải tần hẹp NBI

- Giúp phát hiện tổn thương tốt hơn: Sử dụng dải tần hẹp, nội soi NBI làm tăng độ tương phản, rất dễ nhận biết vùng niêm mạc lành và vùng tổn thương. Đặc biệt là các tổn thương u tân sinh mạch máu nhu viêm, u, polyp. Vai trò này đặc biệt rõ rệt ở những tổn thương nhỏ, dẹt, tổn thương phẳng trên bề mặt niêm mạc…

Nội soi dải tần hẹp với nhiều ưu việt


- Dự đoán được mức độ ác tính, mức độ xâm lấn, và tổn thương mô bệnh học tương ứng của các polyp đại trực tràng. Từ đó định hướng xử lý can thiệp cắt qua nội soi hay phẫu thuật mổ mở hay cần thăm dò thêm bằng siêu âm nội soi, nội soi nhuộm màu thật…

3. Giá trị của NBI trong chẩn đoán ung thư sớm đại trực tràng

Trong một số nghiên cứu thử nghiệm gần đây phát hiện ra rằng, so với các quan sát bình thường, quan sát rõ ràng hơn về các mao mạch khi sử dụng nhuộm màu quang học ở chế độ NBI trong khi nội soi rất hữu dụng. Ứng dụng quan sát trên lớp bề mặt của niêm mạc là có thể sử dụng hệ thống NBI. Do đó, thấy được tổn thương trở nên dễ dàng hơn vì hình ảnh các mạch máu bị gián đoạn. Trên niêm mạc bình thường, thường thấy mô hình lục giác hoặc tổ ong như được tìm thấy xung quanh cấu trúctuyến. Mặt khác, trong các tổn thương ung thư, các mạch máu phát triển dày hơn và sự gián đoạn của các mạch, kích thước đường kính khác nhau của các mạch và sự gia tăng về mật độ mạch có thể được tìm thấy khi các tổn thương bất thường nặng nề hơn. Kể từ khi các bộ lọc của NBI được điều chỉnh đặc tính hấp thụ hemoglobin, những đám màu nâu có thể quan sát thấy nếu các khu vực quan sát có chứa số lượng lớn các mao mạch. nâng cao độ tương phản của các tổn thương làm gián đoạn mạng lưới mao mạch bình thường trong các tổn thương rõ trên đại tràng và cải thiện mức độ quan sát.

Một số nghiên cứu báo cáo rằng các quan sát sử dụng nhuộm màu trong nội soi, và nhuộm màu kết hợp với chức năng phóng đại có giá trị để phân biệt tổn thương sớm. Độ chính xác của chẩn đoán nội soi là 79,1% trong nội soi thông thường và 93,4% trong NBI nội soi đại tràng. Nó là tương tự như của nội soi nhuộm màu dùng Indigo-Carmine.

Phân loại ung thư đại trực tràng theo Nhật Bản:

– Khối u nguyên phát:

+ Tx: Khối u nguyên phát không đánh giá được

+ T0: Không bằng chứng u nguyên phát

+ Tis: Khối u ở lớp niêm mạc hoặc lan đến màng đáy

+ T1: U xâm lấn xuống lớp dưới niêm mạc

+ T2: U xâm lấn xuống lớp cơ

+ T3: U xâm lấn lớp thanh mạc

+ T4: U di căn ra cơ quan xung quanh

T4a và T4b

– Hạch lympho

+ Nx: không thấy hạch

+ N0: Chưa di căn đến hạch vùng

+ N1: Di căn đến 1 – 3 hạch vùng (N1a, N1b, N1c)

+ N2: Di căn 4 hoặc nhiều hạch vùng (N2a, N2b)

– Di căn xa

+ M0: chưa di căn xa

M1: Di căn xa (M1a, M1b)

 

N

M1a

M1b

N0

N1

N2a

N2b

Bất cứ N

T

Tis

0

 

T1

I

IIIa

 

    IVa

    IVb

T2

 

IIIb

T3

IIa

 

 

T4a

IIb

IIIc

T4b

IIc

 

Bảng phân loại TMN về độ ác tính của khối u (UICC 7th)

Khi ở Typ 0 được coi là ung thư sớm đại trực tràng

Phân loại Quốc tế hình ảnh nội soi đại trực tràng nhuộm màu bằng NBI (NICE – Narrow-band imaging (NBI) International Colorectal Endoscopic Classification)

– Màu sắc niêm mạc:

+ Typ 1: Giống hoặc nhạt hơn xung quanh

+ Typ 2: Nâu hơn xung quanh

+ Typ 3: Nâu sẫm, có thể có mảng trắng xen kẽ

– Mạch máu:

+ Typ 1: Không có

+ Typ 2: Nâu xung quanh cấu trúc trắng

+ Typ 3: Có một hoặc hiều vùng đứt gãy hoặc mất mạch

– Mạng lưới bề mặt

+ Typ 1: Dạng chấm trắng hoặc đen

+ Typ 2: hình ovan, ống tuyến có màu trắng bao quanh bằng mạch nâu

+ Typ 3: Không có hình dạng nhất định hoặc mất cấu trúc mạng lưới bề mặt

Từ năm 2013 Nhật Bản áp dụng phân loại riêng có một số thay đổi nhỏ là JNET

4. Nội soi phóng đại có nhuộm NBI

Nội soi phóng đại rất có giá trị khi kết hợp với nhuộm NBI giúp chẩn đoán rõ hơn ung thư sớm đại trực tràng, dựa theo cấu trúc mạng lưới mao mạch bề mặt niêm mạc được phóng đại lên nhiều lần sẽ có thể định hướng chẩn đoán mức độ tăng sản, loạn sản độ thấp, loạn sản độ cao và xâm lấn sâu xuống dưới niêm mạc

Mười lăm năm đã trôi qua kể từ sự ra đời của NBI (ngày 14 tháng 12 năm 1999), và sự đồng thuận đã đạt được trên bản gốc tiếng Nhật về nội soi phóng đại kết hợp NBI phân loại nội soi của các tổn thương ung thư sớm đại trực tràng (phân loại JNET) cũng như bảng phân loại quốc tế NICE. Hiện nay, các nghiên cứu xác nhận cho việc phân loại JNET được đề nghị thực hiện bởi nhóm nghiên cứu của Quỹ Nghiên cứu và Phát triển Trung tâm Ung thư Quốc gia (Yutaka Saito Group) và một nhóm nghiên cứu của Hội nội soi tiêu hóa Nhật Bản. Sửa đổi có thể được thực hiện thông qua những nghiên cứu này, nhưng nó phải lưu ý rằng việc phân loại sẽ được cập nhật liên tục bởi nhiều phát hiện mới và đổi mới trong nội soi. Hơn nữa, có công việc cấp bách để phổ biến cách phân loại này trong nhiều cơ sở y tế ở Việt nam và các nghiên cứu đã chứng minh rằng điều này rất có giá trị trong chẩn đoán định tính và định lượng, có thể xác định các chiến lược chẩn đoán và điều trị cho các tổn thương ung thư sớm đại trực tràng

 

7.11.21

Bệnh trĩ: những điều bạn cần biết

 

BỆNH TRĨ LÀ GÌ?

Trĩ thường được miêu tả là những đám rối tĩnh mạch của hậu môn trực tràng giãn ra, những búi trĩ này sẽ to dần lên do máu tĩnh mạch bị ứ đọng.

Tuỳ thuộc vào vị trí của búi trĩ người ta chia làm 2 loại: trĩ ngoại và trĩ nội

Trĩ ngoại (nằm bên ngoài hậu môn) phát triển ngay gần rìa hậu môn và được phủ bởi lớp da rất nhạy cảm của vùng rìa hậu môn. Chúng thường không đau. Tuy nhiên nếu hình thành cục máu đông (trĩ tắc mạch) nó sẽ rất đau và tạo thành khối cứng chắc. Trĩ ngoại cũng có thể chảy máu nếu nó bị vỡ ra.

Phân loại trĩ nội và trĩ ngoại


Trĩ nội (nằm phía trong hậu môn) thường không đau, chảy máu, thòi trĩ ra ngoài khi đại tiện là những triệu chứng thường xuất hiện. Tuy nhiên nó có thể rất đau nếu búi trĩ nội bị sa ra ngoài hoàn toàn, từ phía trong hậu môn thòi ra ngoài lỗ hậu môn và không thể ấn lại được vào trong (búi trĩ bị nghẹt).

Trĩ nội
Trĩ nội được chia làm 4 độ:

– Độ I: trĩ không sa ra ngoài

– Độ II: trĩ sa ra ngoài và tự tụt vào trong hậu môn sau khi đại tiện

– Độ III: trĩ sa ra ngoài và phải dùng tay để đẩy lại vào trong

– Độ IV: trĩ sa ra ngoài và không thể đẩy lại vào trong

NGUYÊN NHÂN GÂY RA BỆNH TRĨ

Nguyên nhân chính xác gây nên bệnh hiện nay chưa được xác định rõ và thường được phát triển ở những bệnh nhân có các yếu tố thuận lợi làm tăng áp lực trong trực tràng gây chèn ép vào hệ thống tĩnh mạch vùng hậu môn, làm cản trở máu tĩnh mạch trở về và do đó máu tĩnh mạch đọng lại và tĩnh mạch giãn ra tạo thành búi trĩ. Búi trĩ này sẽ to dần lên và thòi ra ngoài nếu những yếu tố này tiếp diễn.

Trĩ ngoại


Các yếu tố thuận lợi bao gồm:

– Tuổi

– Táo bón mãn tính hoặc tiêu chảy

– Thời kỳ mang thai

– Di truyền

– Đại tiện khó khăn, phải rặn nhiều

– Chức năng đường ruột kém, thường xuyên phải dùng thuốc nhuận tràng, thụt hậu môn

– Ngồi đại tiện quá lâu trong nhà vệ sinh (đọc sách báo …)

CÁC TRIỆU CHỨNG CỦA BỆNH TRĨ

Nếu bạn thấy xuất hiện những dấu hiệu sau, bạn có thể đang bị trĩ:

– Chảy máu khi đại tiện

– Xuất hiện các khối thòi ra ngoài khi đại tiện

– Ngứa vùng hậu môn

– Đau

– Xuất hiện những khối cứng nhỏ ở rìa hậu môn

ĐIỀU TRỊ BỆNH TRĨ NHƯ THẾ NÀO?

Nếu bệnh nhẹ có thể khỏi chỉ bằng cách điều chỉnh chế độ ăn nhiều chất xơ (rau, củ, quả …) uống nhiều nước (2-3 lít/ ngày). Loại bỏ các yếu tố gây tăng áp lực trong trực tràng (không rặn mạnh, không ngồi toilet lâu…) ngồi ngâm hậu môn vào chậu nước ấm khoảng 10 phút có thể giảm đau, sưng nề và giảm hiện tượng thòi búi trĩ ra ngoài.

Rau, chất xơ giúp tránh bị trĩ

Với những phương pháp trên thì hầu hết các triệu chứng của bệnh trĩ như đau phù nề sẽ giảm trong vòng 2 đến 7 ngày. Những khối trĩ ngoại tắc mạch có thể hết trong vòng 4 đến 6 tuần. Trong trường hợp khối trĩ tắc mạch đau nhiều liên tục, bác sỹ sẽ phải trích rạch lấy bỏ khối máu cục trong búi trĩ. Thủ thuật này thường được thực hiện tại phòng khám và được gây tê tại chỗ và bệnh nhân thường sẽ dễ chịu, đỡ đau hơn rất nhiều.

Những bệnh nhân bị bệnh trĩ nặng thường phải điều trị bằng thủ thuật hoặc phẫu thuật.

– Thắt trĩ bằng vòng cao su: Có hiệu quả đối với búi trĩ nội nhỏ và sa ra ngoài khi đại tiện (trĩ độ I, II). Một cái vòng cao su nhỏ được đặt vào gốc búi trĩ, ngăn cản máu vào búi trĩ và cắt đứt búi trĩ. Búi trĩ và vòng cao su sẽ rụng và rời ra ngoài trong khoảng vài ngày. Vết thương thường sẽ liền sau đó 1–2 tuần. Thủ thuật này thỉnh thoảng gây cho bệnh nhân khó chịu, hoặc chảy ít máu và thường phải thực hiện nhiều lần để đạt được kết quả điều trị tốt.

– Tiêm xơ búi trĩ: có thể được sử dụng ở những búi trĩ chảy máu và thường không thòi ra ngoài khi đại tiện (trĩ nội độ I). Phương pháp này thường không đau và làm cho búi trĩ xơ cứng lại.

– Mổ trĩ bằng máy cắt nối (phương pháp LONGO): kỹ thuật mổ này sử dụng máy cắt nối đặc biệt, cắt và nối niêm mạc vùng hậu môn trực tràng, giúp búi trĩ được kéo lên vào trong hậu môn và teo dần đi, nó không thể cắt bỏ những búi trĩ ngoại. Phương pháp Longo thường đau hơn thắt vòng cao su hay tiêm xơ nhưng lại ít đau hơn nhiều so với phương pháp cắt trĩ cổ điển.

– Cắt trĩ – phẫu thuật cắt bỏ những búi trĩ: là phương pháp có thể cắt bỏ triệt để cả trĩ nội và trĩ ngoại. Phương pháp này được chỉ định khi:

+ Các cục máu đông hình hành liên tục trong búi trĩ ngoại (tắc mạch).

+ Thất bại điều trị bằng phương pháp thắt vòng cao su.

+ Trĩ sa ra ngoài nhiều gây cản trở sinh hoạt, không đẩy lại vào trong được (trĩ độ III, IV).

+ Trĩ chảy máu nhiều mà điều trị nội khoa và thủ thuật thất bại.

Phẫu thuật cắt trĩ – cắt bỏ những phần mô, búi trĩ gây chảy máu và thòi ra ngoài. Tùy vào điều kiện của từng cơ sở y tế có thể dùng những loại dụng cụ khác nhau để thực hiện phẫu thuật. Phẫu thuật thường được thực hiện khi bệnh nhân được gây tê (tê tại chỗ, tê tuỷ sống) hoặc gây mê.

GIẢI ĐÁP NHỮNG CÂU HỎI THƯỜNG GẶP SAU CẮT POLYP ĐẠI TRÀNG

  Polyp đại tràng là bệnh lý thường gặp. Cắt polyp đại tràng qua nội soi là phương pháp can thiệp tối ưu để phòng tránh ung thư đại trực trà...